Scholar Hub/Chủ đề/#nhiễm trùng sơ sinh sớm/
Nhiễm trùng sơ sinh sớm là một loại nhiễm trùng xảy ra ở trẻ em ngay sau khi sinh hoặc trong vòng 7 ngày đầu tiên sau khi sinh. Nó thường được gây ra bởi vi khu...
Nhiễm trùng sơ sinh sớm là một loại nhiễm trùng xảy ra ở trẻ em ngay sau khi sinh hoặc trong vòng 7 ngày đầu tiên sau khi sinh. Nó thường được gây ra bởi vi khuẩn, virus hoặc nấm và có thể ảnh hưởng đến các bộ phận như da, hệ thống hô hấp, hệ thống tiêu hóa, hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn và cơ quan nội tạng. Nhiễm trùng sơ sinh sớm có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và có thể đe dọa tính mạng của trẻ sơ sinh. Để chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng sơ sinh sớm, cần có sự can thiệp y tế ngay lập tức.
Nhiễm trùng sơ sinh sớm là một trạng thái nhiễm trùng mà trẻ em mắc phải trong tuần đầu tiên sau khi sinh. Đây là một tình trạng nguy hiểm và cần được chẩn đoán và điều trị ngay lập tức để tránh các biến chứng nghiêm trọng và tử vong.
Nhiễm trùng sơ sinh sớm có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, như vi khuẩn, virus, hoặc nấm. Một số nguyên nhân phổ biến bao gồm:
1. Vi khuẩn: GBS (Streptococcus agalactiae), E. coli, Listeria monocytogenes, Streptococcus pneumoniae, và Staphylococcus aureus.
2. Virus: Herpes simplex virus (HSV), virus hô hấp syncytial (RSV), và dung nạp (enterovirus).
3. Nấm: Candida spp.
Nhiễm trùng sơ sinh sớm có thể ảnh hưởng đến nhiều bộ phận trong cơ thể, bao gồm:
1. Da: Các vết loét da, viêm da, viêm niêm mạc.
2. Hệ thống hô hấp: Viêm phổi, viêm phế quản, viêm mũi xoang.
3. Hệ thống tiêu hóa: Viêm gan, viêm ruột, viêm màng túi mật.
4. Hệ thống thần kinh: Viêm màng não, viêm não, viêm tủy sống.
5. Hệ thống tuần hoàn: Viêm mạch máu, viêm van tim.
6. Cơ quan nội tạng: Viêm niệu quản, viêm niệu đạo.
Các triệu chứng của nhiễm trùng sơ sinh sớm có thể khá đa dạng và phụ thuộc vào bộ phận bị ảnh hưởng. Một số triệu chứng thường gặp có thể bao gồm: sốt, khó thở, buồn nôn, nôn mửa, thay đổi tâm trạng, giảm hoặc không có sự tăng cân, da và niêm mạc có màu xám hoặc vàng, buồn ngủ hoặc không tập trung.
Để chẩn đoán nhiễm trùng sơ sinh sớm, các bác sĩ thường tiến hành các xét nghiệm như sinh hóa máu, xét nghiệm vi sinh máu, xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm nước màng và công thức máu. Điều trị sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân của nhiễm trùng và được tiến hành bằng cách sử dụng thuốc kháng sinh, thuốc kháng vi rút hoặc thuốc kháng nấm.
Tuy nhiên, việc phòng ngừa nhiễm trùng sơ sinh sớm vẫn là quan trọng nhất. Việc tiêm chủng đầy đủ và sạch sẽ, phương pháp chăm sóc sơ sinh hiệu quả và kiểm soát tiếp xúc với những người mắc bệnh trước khi hoặc sau khi sinh đều có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
Nghiên cứu tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới và một số đặc điểm liên quan ở phụ nữ mang thai ba tháng cuốiĐặt vấn đề: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới là một trong những rối loạn thường gặp nhất khiến bệnh nhân tìm đến bác sỹ sản phụ khoa. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai được báo cáo rất cao.
Mục tiêu:Mô tả tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối và tìm hiểu một số đặc điểm liên quan viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Sử dụng kỹ thuật nhuộm Gram và nuôi cấy định danh vi khuẩn dịch âm đạo.
Kết quả: Nghiên cứu trên 103 phụ nữ mang thai từ 28 tuần trở lên có tiết dịch âm đạo bất thường. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới là 46,6%. Các tác nhân gồm 32,0% nhiễm nấm Candida âm đạo; 13,6% nhiễm khuẩn (kỵ khí) âm đạo và 15,5% viêm hiếu khí âm đạo. Có 13 sản phụ (12,5%) nhiễm kết hợp các tác nhân. Tỷ lệ sản phụ nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới là 4,9%. Tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ sinh ra từ sản phụ có nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới cao hơn trẻ sinh ra từ sản phụ không nhiễm (p<0,05).
Kết luận: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối cao. Các tác nhân thường gặp theo thứ tự là nấm Candida, vi khuẩn hiếu khí và vi khuẩn kỵ khí. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình hình nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới của sản phụ với tình hình nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ.
#Đường sinh dục dưới #nấm Candida #nhiễm khuẩn âm đạo #viêm âm đạo hiếu khí #Liên cầu nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh sớm
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ NỒNG ĐỘ PROCALCITONIN HUYẾT THANH TRONG NHIỄM TRÙNG SƠ SINH GIAI ĐOẠN SƠ SINH SỚM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH THUẬNĐặt vấn đề: Nhiễm trùng sơ sinh giai đoạn sơ sinh sớm (NTSSS) là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong sơ sinh trên toàn cầu. Mục tiêu: Mô tả lâm sàng và nồng độ procalcitonin huyết thanh trong nhiễm trùng sơ sinh giai đoạn sơ sinh sớm. Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu theo dõi dọc trên 39 trẻ sơ sinh từ 1-7 ngày tuổi, được điều trị nhiễm trùng sơ sinh tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2021. Kết quả: Lâm sàng: Toàn thân: da vàng tái (12,8%), sốt (12,8%), nổi vân tím (12,8%). Tim mạch: tần số tim ≥160 lần/phút (15,4%), CRT >3 giây (7,7%). Hô hấp: nhịp thở ≥60 lần/ phút (33,3%) và <20 lần/phút (12,8%), dấu gắng sức (10,3%), cơn ngưng thở (7,7%). Thần kinh: giảm phản xạ (51,3%), trương lực cơ giảm (30,8%), kém linh hoạt (20,5%). Tiêu hóa: bú kém/ bỏ bú (38,5%), nôn (30,8%), chướng bụng (12,8%). Trung vị nồng độ PCT huyết thanh nhóm NTSSS (4,3 ng/ml) cao hơn so với nhóm không NTSSS (p<0,05). Diện tích dưới đường cong 0,96 (p<0,001) nồng độ PCT cao hoặc thấp có khả năng xác định được NTSSS với điểm cắt 0,17 ng/ml thì độ nhạy 97% và độ đặc hiệu 86%. Kết luận: Lâm sàng của NTSSS đa dạng và PCT có giá trị rất tốt trong chẩn đoán NTSSS.
#Nhiễm trùng sơ sinh #Procalcitonin
NGHIÊN CỨU BỆNH NHIỄM TRÙNG SƠ SINH SỚM QUA ĐƯỜNG MẸ-THAI TẠI KHOA NHI SƠ SINH BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2020-2022 Đặt vấn đề: Nhiễm trùng sơ sinh (NTSS) rất hay gặp và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là nhiễm trùng sơ sinh sớm. Theo dõi xác định rõ những yếu tố nguy cơ, phát hiện sớm những biến đổi lâm sàng có thể phát hiện sớm bệnh nhiễm trùng sơ sinh cho phép xử trí sớm góp phần đáng kể giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng bệnh NTSS sớm qua đường mẹ-thai; 2. Mô tả đặc điểm cận lâm sàng bệnh NTSS sớm qua đường mẹ-thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát mô tả trên 82 trẻ nhiễm trùng sơ sinh sớm qua đường mẹ-thai. Kết quả: 82 bệnh nhi được nghiên cứu với nam 53,7%; 40,2% trẻ nhẹ cân, 41,5% trẻ non tháng. Lâm sàng: Triệu chứng hô hấp là thường gặp nhất với thở co lõm ngực (64,6%), thở rên (59,8%), cơn ngưng thở nặng và thở không đều (28%). Tiêu hóa: Bú kém, bỏ bú tỷ lệ 37,8%, ọc dịch nâu chiếm 35,4% và bụng chướng 19,5%. Một số triệu chứng lâm sàng khác: Thần kinh, da niêm, huyết học. Cận lâm sàng: Bạch cầu số lượng ≥20000/mm3 là 75,6%, 34,1% trường hợp CRP≥10mg/l. Kết luận: Lâm sàng và cận lâm sàng đa dạng, mức độ biểu hiện khác nhau, các triệu chứng thường gặp là hô hấp, tiêu hóa, thần kinh, toàn thân. Cận lâm sàng biểu hiện với số lượng bạch cầu tăng và CRP tăng.
#Nhiễm trùng sơ sinh sớm
ÁP DỤNG PHÁC ĐỒ NICE GIÚP GIẢM SỬ DỤNG KHÁNG SINH Ở TRẺ THEO DÕI NHIỄM TRÙNG SƠ SINH SỚMMục tiêu: Các nghiên cứu đã công bố khuyến cáo xử trí trẻ sơ sinh khỏe có nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (NTSSS) còn hạn chế.Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu và tiền cứu so sánh hai chiến lược xử trí trẻ sơ sinh nguy cơ NTSSS trong 2 năm (Giai đoạn 1, từ 2/2022 to 07/2022; Giai đoạn 2, từ 08/2022 đến 02/2023). So sánh Giai đoạn 1 điều trị kháng sinh 5 ngày với giai đoạn 2 với phác đồ NICE, bao gồm khám lâm sàng và xét nghiệm lúc 36 giờ. So sánh thời gian sử dụng kháng sinh, nguy cơ trở nặng sau xuất viện ở 2 giai đoạn.Kết quả: Thời gian điều trị kháng sinh trung bình là 5 (Giai đoạn 1) và 3 ngày (Giai đoạn 2, p¼0.04). Không có trẻ nào nhiễm trùng sơ sinh sớm sau xuất viện.Kết luận: Xử trí trẻ sơ sinh khỏe có nguy cơ NTSSS theo phác đồ NICE giúp giảm sử dụng kháng sinh không cần thiết và giảm thời gian nằm viện. Không có tăng nguy cơ biến chứng nặng sau xuất viện.
#xử trí trẻ sơ sinh khỏe có nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm #phác đồ NICE
Tác động của việc bổ sung kẽm đến kết quả sớm của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh - Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 83 - Trang 289-293 - 2015
Mục tiêu của nghiên cứu là để tìm hiểu tác động của việc bổ sung kẽm đến kết quả của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh khi trẻ được một tháng tuổi. Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng này được thực hiện tại một đơn vị chăm sóc chuyên khoa cho trẻ sơ sinh, với sự tham gia của các trẻ sơ sinh có các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm trùng huyết và có kết quả cấy máu dương tính hoặc xét nghiệm sàng lọc nhiễm trùng huyết dương tính. Nhóm điều trị nhận 3 mg/kg/ngày, chia làm hai lần, kẽm sulfat monohydrate qua đường uống trong 10 ngày cùng với phác đồ kháng sinh tiêu chuẩn. Nhóm đối chứng nhận điều trị kháng sinh tiêu chuẩn mà không có kẽm. Mẫu bệnh phẩm được thu thập từ cả hai nhóm trước và sau điều trị. Trẻ sơ sinh được theo dõi cho đến khi xuất viện và tiếp tục được tái khám ngoại trú cho đến khi đạt một tháng tuổi. Các đặc điểm nhân khẩu học tương tự nhau giữa các trường hợp và nhóm đối chứng. Sau 10 ngày điều trị, nồng độ kẽm huyết thanh trung bình giữa hai nhóm là 737.09 ± 219.97 so với 801.26 ± 405.56 (p = 0.20). Các chỉ số kết quả như số ngày nằm viện (15 so với 15; p = 0.69) và tỷ lệ tử vong (4.5 % so với 13.6 %; p = 0.27) không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nhóm. Tại thời điểm một tháng tuổi, số trẻ sơ sinh trong nhóm đối chứng có các phát hiện thần kinh bất thường nhiều hơn so với nhóm bổ sung kẽm [(P = 0.02); RR (95%CI) = 0.28 (0.11–0.73)]. Việc bổ sung kẽm cho trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng huyết cải thiện tình trạng thần kinh khi trẻ được một tháng tuổi mặc dù sự giảm tỷ lệ tử vong không có ý nghĩa thống kê.
#kẽm #nhiễm trùng huyết #trẻ sơ sinh #bổ sung kẽm #thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
KHẢO SÁT KẾT QUẢ TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ F0 TẠI NHÀĐặt vấn đề: Molnupiravir là một loại thuốc uống kháng vi-rút đã nhận được giấy phép sử tại Việt Nam để điều trị COVID-19 nhẹ. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh, giảm đỡ triệu chứng sau khi sử dụng gói thuốc điều trị F0 tại nhà và một số yếu tố liên quan đến hiệu quả sử dụng gói thuốc. Phương pháp: Nghiên cứu theo dõi dọc. Kết quả: 400 F0 sau 5 ngày dùng thuốc số lượng BN dương tính còn 35, số BN có kết quả âm tính hoặc dương tính (CT ≥ 30) tăng lên 365 (p <0,05). Tỷ lệ BN có kết quả xét nghiệm sau 5 ngày âm tính hoặc dương tính (CT ≥ 30) chiếm 91,2%. Tỷ lệ khỏi bệnh sau khi sử dụng gói thuốc chiếm 99,85%, không có BN nào tử vong (0,0%). 100% có kết quả xét nghiệm âm tính (khỏi bệnh) sau khi kết thúc thời gian điều trị. Có mối liên quan giữa nhóm tuổi (OR=2,7); bệnh nền (OR=3,0) với kết quả xét nghiệm dương tính (CT < 30) với âm tính và dương tính (CT ≥ 30) sau 5 ngày dùng thuốc (p <0,05). Kết luận: Molnupiravir làm giảm đáng kể nguy cơ nhập viện hoặc tử vong ở bệnh nhân COVID-19 nhẹ, molnupiravir cũng được chứng minh là dung nạp tốt và an toàn mà không có bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào khi sử dụng.
#Nhiễm trùng sơ sinh sớm #Bệnh viện Đa khoa Ninh Thuận
NHIỄM TRÙNG SƠ SINH Ở MẸ VỠ ỐI SỚM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨĐặt vấn đề: Nhiễm trùng sơ sinh là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh, đồng thời là một trong bốn nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ sơ sinh. Khảo sát tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh và các yếu tố liên quan trên trẻ sơ sinh sống sinh ra từ mẹ vỡ ối sớm tại Bệnh viện Từ Dũ. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu bệnh án của trẻ sơ sinh sinh ra sống từ các bà mẹ vỡ ối sớm được chẩn đoán là nhiễm trùng sơ sinh và bệnh khác không nhiễm trùng tại Bệnh Viện từ Dũ từ 01/01/2020 đến 30/06/2020. Kết quả: Trong số 255 trẻ sơ sinh sinh ra sống từ mẹ vỡ ối sớm có 24 trẻ nhiễm trùng sơ sinh chiếm tỷ lệ 9,41%. Trong đó chủ yếu là viêm phổi có 21 trẻ (8,2%) sau đó đến viêm ruột hoại tử có 2 trẻ (0,9%), một trẻ nhiễm trùng da (0,4%) và 1 trẻ nhiễm trùng rốn (0,4%). Các biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất trong nhiễm khuẩn sơ sinh là thở nhanh (91,7%) và rút lõm lồng ngực (79,2%) sau đó đến ngạt và nôn (20,8%). Ít gặp nhất là sốt, tím tái, mụn mủ da, mỗi dấu hiệu chỉ chiếm 4,2%. Về cận lâm sàng cho thấy tăng bạch cầu gặp nhiều nhất với 17(70,8%) trẻ, sau đó đến CRP tăng, chỉ có 4(18,2%) trẻ và tiểu cầu giảm có 3(12,5%) trẻ và ít nhất là cấymáu dương tính có 1(4,2%) trẻ. Trong khi đó chụp Xquang phổi có tổn thương lên tới 21(87,5%) trường hợp và Xquang bụng là 2(8,3%) trường hợp. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến nhiễm khuẩn sơ sinh là thời gian vỡ ối sớm trên 18 giờ, điểm Apgar thấp từ 0-7 điểm, thở nhanh, rút lõm lồng ngực, nôn, Xquang phổi và Xquang bụng có tổn thương (p=0,000 và 0,009). Kết luận: Nhiễm trùng sơ sinh thường gặp trên trẻ sơ sinh có mẹ ối vỡ sớm. Cần theo dõi, phát hiện sớm cácdấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng có nguy cơ liên quan đến nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh.
#Nhiễm trùng sơ sinh #Vỡ ối sớm